Lưu ý: Thế giới và các tình tiết trong truyện là sản phẩm của trí tưởng tượng, đã được lý tưởng hóa nhằm phục vụ mục đích sáng tạo. Mọi sự trùng hợp với thực tế chỉ là ngẫu nhiên, không mang giá trị nghiên cứu hay đối chiếu.

Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và MỞ ỨNG DỤNG SHOPEE để mở khóa toàn bộ chương truyện.

https://s.shopee.vn/9KXuVwrTGM

119

Lưu ý: Nội dung trên chỉ xuất hiện 1 lần trong ngày, mong Quý độc giả ủng hộ. Xin chân thành cảm ơn!

Chương 1

1.

Năm ta sáu mươi bảy tuổi, mệnh tận thọ chung.

Hàng xóm gom mẫu ruộng ta để lại đổi lấy một cỗ quan tài mỏng, đem chôn ta đỉnh núi Lan, bia mộ quay về phương Bắc.

Tất cả mọi người đều biết, ta chờ một người. Hắn ra bắc tòng quân, không còn trở lại.

Ta nghĩ ít ra cũng gặp được hắn cầu Nại Hà. Thế nhưng, đến cuối cùng, ta cũng chẳng qua được cầu ấy, mà là trọng sinh trở về năm ta mười chín tuổi.

ấy, Chu Minh Quang đã lên đường đi Bắc Cương được năm.

Ta lập tức quyết định—phải tìm bằng được Chu Minh Quang.

Hôm ấy, ta bán hết gà vịt ngan ngỗng trong nhà, cả heo nhỏ còn chưa kịp xuất chuồng, đổi được năm lượng bạc.

Trước lúc rời đi, Chu Minh Quang lén nhét vào tay ta chiếc vòng ngọc tổ truyền. Chỉ là hiệu cầm đồ chê chất ngọc xấu, cùng lắm chỉ trả mười lượng bạc.

Ta nghiến răng đồng ý.

Chiếc vòng , kiếp trước ta cả một đời. Dù những năm tháng cơ cực nhất cũng chưa nỡ đem đi đổi tiền.

Sáng hôm ta rời làng, ráng hồng rực cháy, thiêu đốt nửa vòm trời.

Trưởng bối trong tộc bảo:

“Trời hửng đỏ thì chớ xuất môn, e là sắp mưa rồi, để bữa khác hãy đi!”

Ta chẳng nghe lời. Kiếp trước đã đợi đến năm mươi năm, kiếp —một ngày ta cũng không muốn chờ thêm nữa.

Phía sau, tộc lão thở dài một tiếng:

“Đứa ngốc! Thật là đứa ngốc mà!”

Giang Nam ngược ra phương Bắc, ta đi ròng rã suốt nửa năm trời.

đến Thanh Châu, bị trộm mất. Ta hoảng hốt đứng boong thuyền, run giọng hỏi người:

“Đại ca, có ai thấy của ta không? Là một bọc vải xanh, trong chỉ có lượng bạc với mấy bộ y phục cũ thôi!”

Mọi người đều lắc đầu, ánh mắt lộ vẻ xót xa. Trong những ánh nhìn ấy, ta dần gục ngã, bật khóc nức nở…

Nước mắt nhỏ xuống sàn gỗ, đọng lại thành vũng lấp lánh như ánh bạc, các đốt ngón tay cũng siết đến trắng bệch.

Thấy không đành lòng, thuyền chủ là một đại tỷ cầm đao dài bước ra đứng boong, cất tiếng lạnh lùng:

“Ai đã lấy của cô nương đây, đêm nay phải đem trả lại trước khoang nàng. Nếu không, đừng trách ta, Nương, ra tay không nể !”

Mọi người xung quanh bắt đầu thì thầm bàn tán, ta nghe có người nói:

“Ai lỡ tay lấy thì mau đem trả lại đi, Nương đã mở lời rồi, còn muốn ăn khúc sông nữa không?”

Ta chẳng rõ Nương là nhân vật thế nào, chỉ thấy lòng bừng lên hy vọng— của ta… có lẽ trở về!

2.

Đêm ấy ta không chợp mắt lấy một khắc. tờ mờ sáng liền mở bước ra — quả nhiên, bị ném trở lại, nằm ngay trước khoang!

Ta ôm chặt bọc đồ đã mất rồi lại tìm về, không ngớt lời cảm tạ Nương.

Nương sự quả đoán, đối với lời cảm ơn của ta chỉ nhàn nhạt đáp một câu:

“Ra ngoài đi lại, phải học cách mở to mắt mà sống.”

Ta cúi đầu, lòng tràn ngập xấu hổ. Một thân một mình rời quê đi tìm người, nhưng gặp chuyện đã chỉ biết khóc lóc. Một người cứng cỏi như nàng, hẳn là khinh thường ta lắm.

Thấy ta cụp đầu chẳng nói gì, Nương vỗ vai ta, nói:

“Năm xưa tên phụ tình trong nhà ta cũng bị bắt đi tòng quân, rồi không quay lại nữa.

“Ai ngờ một năm sau, hắn lại phó dưới trướng Tương Quốc Công, còn cưới thứ nữ của Thượng thư Bộ Binh kế thất.

“Ta một thân một mình lên kinh tìm chồng, bị đánh gãy mấy cái xương sườn. Dưỡng thương xong thì sơn tặc dọc sông, đến nay vẫn sống tiêu dao tự tại.

“Lòng người dễ đổi. Cô nương sớm liệu đường lui cho mình thì hơn!”

Sau biệt Nương, ta đeo bọc tiếp tục ngược lên phương Bắc.

đi về Bắc, thời tiết lạnh. Cỏ cây cũng theo mà úa vàng…

Đàn nhạn bay thành hàng, nối đuôi nhau bay về phương Nam ấm áp, còn ta thì ngược hướng mà đi.

tới Vọng Bắc Thành, tuyết lớn đã phong kín đường.

cổng thành khuyên:

“Cô nương chi bằng cứ tìm việc tạm trong thành, đợi đến đầu xuân sang năm hãy lên Bắc Quan thì hơn.”

Ngón tay truyền tới đợt tê buốt như kim châm. Ta cúi đầu nhìn xuống, móng tay đã sớm tím bầm, mu bàn tay sưng vù đỏ ửng như củ cà rốt.

“Đa tạ đại nhân, dân nữ lập tức vào thành tìm việc.”

thành phẩy tay ra hiệu cho ta rời đi, ta quay người bước đi, hắn lại gọi giật lại:

“Trong thành có vài tiệm trước treo hoa hương củi — là nhà có trượng phu thủ nơi ải quan. Cô nương đến xin việc, được họ nương tay hơn đôi chút.”

3.

Mùa đông, hoa hương củi đã sớm tàn phai, chỉ còn lại mấy cành khô trơ trọi, lay lắt giữa gió tuyết.

Một đại tỷ thấy ta đứng do dự trước quán, liền kéo ta vào trong.

Hơi ấm lập tức ập đến, ta đứng lặng trong gian nhà, tay chân lúng túng.

“Cô nương là đến Bắc Quan tìm người phải không? công tỷ cũng đóng quân ở . Đã tới nhà ta thì cứ coi như là về nhà mình, đừng ngại gì cả!”

Ta còn chần chừ, tỷ ấy đã rót một chén trà sữa nóng đưa vào tay ta, giục:

“Uống chút cho ấm người đã!”

Hương trà nồng nàn phảng phất, lời chối nghẹn lại nơi cổ họng, cuối cùng vẫn nuốt xuống.

Một người nhiệt tình hào sảng thế , chắc không phải là kẻ mở tiệm chặt chém đâu nhỉ?

Về sau ta mới biết, phu quân của chủ quán họ , tổ tiên ba đời đều là ải Bắc. Tỷ ấy một tay quán xuyến tửu quán , nuôi cả nhà lớn bé.

Tỷ biết ta biết chữ, liền chẳng chút khách khí đặt sổ sách lên tay ta:

“Thế chẳng phải buồn ngủ thì gặp ngay gối đầu sao! Ông Hồ nghỉ về quê chịu tang, ta rối không tìm được người trông sổ sách!”

Tỷ ấy thẳng thắn đưa sổ sách giao cho ta, sự niềm nở ấy dần dần xoa dịu nỗi bất an mà ta mang theo suốt chặng đường Thanh Châu đến đây.

gần Bắc Quan, lòng ta lại bối rối.

Ta và Chu Minh Quang lớn lên nhau. Hắn không cha, ta không mẹ, nhà nương tựa vào nhau mà sống, tuy khốn khó nhưng cũng không đến mức quá gian nan.

Năm Hoằng Thịnh thứ sáu, thuỷ tai liên tục xảy ra ở Giang Nam, biết bao ruộng tốt bị lũ nhấn chìm.

Huyện nha bắt dân đi lao dịch đắp đê. A phụ ta vốn là người đọc sách, nào chịu nổi cảnh nặng nhọc ở bãi đá. Chưa đến một tháng đã mất mạng.

Chu thẩm lo liệu hậu sự cho a phụ ta chu toàn, còn dặn dò Chu Minh Quang rằng:

nay về sau, Tuyết Dao chính là người nhà chúng ta. Ngươi có một miếng ăn, thì cũng phải để dành một miếng cho bé.”

Mà thực ra, bất kỳ thứ gì ngon, Chu Minh Quang đều nhường ta trước tiên.

Ngay cả lúc hàng xóm A mang sang một miếng bánh điểm tâm, hắn cũng nâng niu bưng đến trước ta.

Ta ăn một nửa, nửa còn lại đẩy về phía hắn.

Chu Minh Quang cười hì hì:

“Của muội cả đấy, phần của ta ăn hết đường về rồi.”

Sợ ta không tin, hắn còn cố tình dùng tay áo lau khóe miệng, tỏ vẻ như thật.

Ta đành ngoan ngoãn ăn nốt nửa còn lại. Thế mà quay đầu đã thấy hắn nhặt lấy mảnh giấy dầu lót dưới bánh, đưa lên miệng liếm sạch vụn bánh trong.

Kiếp trước, không phải không có người mai mối cho ta. Nhưng ta luôn nghĩ: đợi thêm chút nữa đi, nhỡ đâu Chu Minh Quang quay về thì sao?

Ai ngờ, một cái đợi ấy… là trọn năm mươi năm!

4.

Mùa đông ở Vọng Bắc Thành lạnh buốt thấu xương, nhưng tửu quán lại đông khách lạ thường.

Có một vị đại gần như ngày nào cũng tới. Nửa ông bị dao cắt mất, vết thương dữ tợn khiến người ta nhìn vào không khỏi rùng mình.

Thế nhưng ông lại là người vô cùng hiền hậu. Trẻ trong thành rất thích quây quanh ông xin kẹo hồ lô.

Lúc nào ông cũng cười khổ: “Tiền trong túi đại cũng sắp cạn rồi đấy…”

Nhưng tay thì chẳng hề ngần ngại móc tiền ra mua.

Nghe tỷ kể, Lưu là cựu binh Bắc Quan trở về. Nửa kia là bị đao dài của người Bắc Địch chém mất.

Thế nhưng, cho dù bị thương đến vậy, ông vẫn chém hạ được mấy tên địch, đến nỗi cả quan cũng phải khen ông dũng mãnh phi thường.

Lưu nghe nói ta định đến Bắc Quan tìm vị hôn phu, liền cười ha hả:

“Đúng là người trẻ tuổi có phúc khí! Một vị hôn thê xinh thế mà vượt ngàn dặm tới tìm, hiếm lắm đấy!”

Ông còn hứa nhờ người quen giúp ta dò hỏi.

Tỷ lập tức nói:

“Mau cảm ơn Lưu đi! Ông ấy quen biết rộng, nhất định giúp được muội.”

Ta cúi người cảm tạ không ngớt. Chỉ là ấy ta chưa biết—người sống còn dễ tìm, người chết mới thật khó gặp. Những kẻ lặn lội đến Bắc Quan tìm người thân chẳng ít, nhưng người thực sự tìm được… lại chẳng là bao.

út của tỷ là một đứa bé rụt rè nhút nhát. Mỗi lần thấy ta cầm sổ sách đều trèo lên ghế nhìn chằm chằm với vẻ tò mò.

Ta hỏi:

“Muốn học không? Tỷ dạy đệ viết chữ nhé?”

Nó đỏ gật đầu. , mỗi ngày chúng ta lại cầm cành cây ra sân, viết vẽ đất.

Tỷ hay than:

“Thằng bé nhát như cáy, chẳng biết giống ai nữa.”

Cho đến một hôm, nàng thấy trai viết tên người trong nhà lên giấy, ánh mắt nàng rực sáng, cẩn thận gấp tờ giấy ấy giấu vào ngực áo như báu vật.

Qua mồng Tám tháng Chạp, hương Tết lúc rõ rệt. Trong thành, nhà nhà bắt đầu mổ lợn, hấp bánh bao chuẩn bị đón năm mới.

Thế nhưng, đúng vào một đêm yên bình trước thềm năm mới ấy—chiêng trống trong thành đột ngột dội vang…

Tùy chỉnh
Danh sách chương